Ngày 05/8/2022, Cục Sở hữu trí tuệ ban hành Quyết định số 3333/QĐ-SHTT về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý số 00118 “Bến Kè” cho sản phẩm khoai mỡ. Ủy ban nhân dân huyện Thạnh Hóa (tỉnh Long An) là tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý này.
Bến Kè là một trong bốn ấp thuộc xã Thủy Đông, được hình thành từ khá sớm trong lịch sử khai phá vùng Đồng Tháp Mười. Theo địa bạ triều Nguyễn năm 1836, khu vực này nằm ở rìa lòng chảo Đồng Tháp Mười. Trước đây, Bến Kè từng là một vịnh biển ăn sâu vào đất liền, nhưng theo thời gian, do hiện tượng biển thoái cách đây khoảng 6.000 năm, phù sa và trầm tích từ sông Tiền, sông Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ Tây đã bồi đắp, tạo nên vùng đất màu mỡ như ngày nay.
Từ năm 1975, Bến Kè đã trở thành vùng đất nổi tiếng với cây khoai mỡ. Giống khoai bản địa được người dân địa phương chọn làm cây trồng chủ lực, giúp đa dạng hóa nông nghiệp và nâng cao hiệu quả sản xuất. Hiện nay, toàn huyện Thạnh Hóa đã phát triển hơn 2.799 ha khoai mỡ với năng suất trung bình 15 tấn/ha, sản lượng đạt khoảng 41.506 tấn. Giá bán bình quân 8.000 đồng/kg, mang lại lợi nhuận tối thiểu 40 triệu đồng/ha.
Không chỉ tiêu thụ trong nước, khoai mỡ Thạnh Hóa còn vươn xa đến các thị trường quốc tế như Châu Âu, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản và Campuchia, trở thành niềm tự hào của vùng đất này. Vào mỗi mùa thu hoạch, từ tháng 11 đến tháng 7 năm sau, dọc theo quốc lộ N2 (nối TP. Hồ Chí Minh với các tỉnh miền Tây) và quốc lộ 62 (kết nối TP. Tân An với cửa khẩu Bình Hiệp – biên giới Campuchia), hình ảnh những chuyến thuyền, xe tải tấp nập vận chuyển khoai mỡ đến các địa phương và nhà máy tiêu thụ đã trở nên quen thuộc, khẳng định vị thế của Thạnh Hóa trên bản đồ nông sản Việt Nam.
Đặc điểm cảm quan và chất lượng:
Củ khoai mỡ Bến Kè có hình trụ tròn, thuôn dài, ít phân nhánh, với trọng lượng lớn. Khoai mỡ trắng đạt từ 1,7 – 2,5 kg/củ, trong khi khoai mỡ tím có trọng lượng từ 0,9 – 1,7 kg/củ. Thân củ có nhiều rễ phụ, bề mặt cắt tiết ra chất nhầy và nhớt, hạt tinh bột có hình tròn, phân bố đều và có ranh giới rõ ràng.
Khoai mỡ trắng Bến Kè có hàm lượng nước dao động từ 66,2 – 69,6%, hàm lượng tinh bột từ 24,4 – 27,9%, hàm lượng Kali từ 3,1 – 4,9 mg/100g và hàm lượng Mangan từ 1,9 – 8,4 mg/100g.
Khoai mỡ tím Bến Kè có hàm lượng nước cao hơn, từ 70,3 – 72,8%, hàm lượng tinh bột dao động từ 17 – 22,2%, hàm lượng Kali từ 2,1 – 4,9 mg/100g và hàm lượng Mangan từ 1,6 – 10,5 mg/100g.
Điều kiện canh tác:
Khoai mỡ Bến Kè sở hữu những đặc tính và chất lượng đặc trưng nhờ vào điều kiện tự nhiên độc đáo của khu vực. Vùng địa lý này có mùa lũ từ tháng 9 đến tháng 11 hàng năm, khi nước từ thượng nguồn tràn qua các chi lưu, kênh rạch, làm ngập hầu hết diện tích canh tác của huyện Thạnh Hóa, ngoại trừ những vùng gò cao. Sự xâm nhập của lũ theo chu kỳ không chỉ mang lại nguồn phù sa giàu dinh dưỡng mà còn bổ sung khoáng chất cho đất, đồng thời giúp hạn chế sự phát triển của dịch hại, tạo điều kiện thuận lợi cho cây trồng.
Thời vụ canh tác khoai mỡ tại Bến Kè cũng chịu ảnh hưởng từ mùa lũ, khiến chu kỳ sản xuất khác biệt so với các vùng trồng khoai mỡ khác. Người dân địa phương bắt đầu xuống giống vào tháng 12, chăm sóc cây từ tháng 12 đến tháng 5 và thu hoạch từ tháng 6 đến tháng 8. Khi lũ về vào tháng 9, đất trồng sẽ được để hoang, ngập nước đến hết mùa lũ vào tháng 11.
Về địa hình, khu vực Bến Kè có đặc điểm thấp trũng, khó thoát nước, với xu hướng thấp dần từ Đông Bắc xuống Tây Nam. Khoảng 95,1% diện tích có cao độ dưới 0,9m, trong đó 5,3% khu vực có cao độ dưới 0,6m. Địa hình này góp phần hình thành loại đất trồng khoai mỡ đặc biệt, với sự kết hợp của đất phèn và đất mùn. Đất có tính hơi chua với độ pH H2O từ 3,53 – 3,77 và pH KCl từ 3,15 – 3,99. Hàm lượng Fe trao đổi ở tầng mặt đạt 0,68%, tầng 20 – 40cm là 0,67%, trong khi hàm lượng Al trao đổi lần lượt là 0,78% và 0,69%. Đặc biệt, đất chứa hàm lượng chất hữu cơ (mùn) cao, đạt 8,37% ở tầng mặt (0 – 20cm) và 3,57% ở tầng sâu (20 – 40cm).
Sự có mặt của các ion H+, Fe3+, Al3+ trong đất giúp cố định và cân bằng lượng P và Mg, đáp ứng tốt nhu cầu dinh dưỡng của cây khoai mỡ mà không gây tình trạng thiếu hụt hay dư thừa dưỡng chất. Nhờ đó, khoai mỡ Bến Kè phát triển mạnh, tích lũy tối đa tinh bột, có hàm lượng nước thấp và giàu khoáng chất. Ngoài ra, lượng mùn cao tạo kết cấu đất tơi xốp, duy trì độ ẩm ổn định, hạn chế hiện tượng đất bị dí chặt, giúp cây sinh trưởng tốt. Điều kiện này đặc biệt thuận lợi cho cây có củ nói chung và khoai mỡ nói riêng, góp phần tạo nên chất lượng vượt trội của khoai mỡ Bến Kè.
Quy trình kỹ thuật sản xuất:
Bên cạnh các điều kiện tự nhiên đặc thù, người dân Bến Kè còn áp dụng những bí quyết canh tác riêng, góp phần tạo nên chất lượng đặc trưng của khoai mỡ. Giống khoai mỡ được sử dụng chủ yếu là khoai mỡ trắng Mộng Linh, khoai mỡ tím than và tím bông lau – những giống bản địa có năng suất và chất lượng cao.
Khi chọn giống, các củ khoai mỡ được cắt thành từng khối nhỏ kích thước 6 – 8 cm. Đặc biệt, sau khi cắt, mặt cắt của củ giống (trừ phần vỏ) sẽ được thấm qua lớp xi măng khô. Xi măng có tác dụng hút ẩm từ bề mặt cắt, hạn chế sự phát triển của nấm gây hại, ngăn ngừa tình trạng thối hỏng trong quá trình ủ giống, đồng thời tăng tỷ lệ nảy mầm của cây.
Khác với nhiều vùng trồng khoai mỡ khác, khu vực Bến Kè thuộc huyện Thạnh Hóa có địa hình thấp trũng, chịu ảnh hưởng của lũ hằng năm từ hệ thống sông, nên người dân đã phát triển phương pháp trồng thích ứng bằng cách lên liếp. Sau khi lũ rút, đất trồng được xới xáo và tạo thành các liếp song song, với bề mặt rộng từ 3 – 4m, xen kẽ là các mương nước rộng 2 – 3,5m và sâu 60 – 70cm. Mực nước trong mương được duy trì cách mặt liếp 20 – 30cm, giúp cung cấp độ ẩm ổn định cho cây khoai mỡ trong suốt quá trình sinh trưởng.
Ngoài ra, ngay sau khi trồng, người dân còn tận dụng cỏ mọc xung quanh các mương nước, phơi khô và phủ một lớp mỏng lên bề mặt luống. Lớp phủ này không chỉ giúp giữ ẩm, bảo vệ cây khoai trong giai đoạn đầu mà còn đóng vai trò như một lớp ngăn, hạn chế sự tiếp xúc trực tiếp giữa dây khoai và mặt đất, góp phần nâng cao chất lượng và sản lượng khoai mỡ Bến Kè.
Phạm vi địa lý:
Thị trấn Thạnh Hóa và các xã Thủy Tây, Thủy Đông, Thạnh An, Thuận Bình, Tân Hiệp, Tân Tây, Tân Đông, Thuận Nghĩa Hòa, Thạnh Phú, Thạnh Phước thuộc huyện Thạnh Hóa, tỉnh Long An
Truyền thông nói về sản phẩm Khoa mỡ Bến Kè:
Khoai Mỡ Bến Kè Long An – Đặc Sản Nổi Danh Và Niềm Tự Hào Của Vùng Đất Thạnh Hóa: https://vocongton.wordpress.com/2024/09/14/khoai-mo-ben-ke-long-an/
Long An: Loại khoai mỡ tím lịm, giàu khoáng chất của vùng Bến Kè vừa nhận được một chứng nhận quan trọng: https://danviet.vn/thu-khoai-mo-tim-lim-bo-duong-cua-vung-ben-ke-long-an-vua-nhan-duoc-mot-chung-nhan-quan-trong-20220826191016837.htm
Khoai mỡ - “Báu vật” vùng đất Thạnh Hóa (Long An): https://moitruongvaxahoi.vn/khoai-mo-bau-vat-vung-dat-thanh-hoa-long-an-403614700.html