Ngày 22/01/2018, Cục Sở hữu trí tuệ ra Quyết định số 264/QĐ-SHTT về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý số 00061 cho sản phẩm gạo “Mường Lò” nổi tiếng. Ủy ban nhân dân thị xã Nghĩa Lộ là Tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý này.
Câu truyền khẩu “Nhất Thanh, nhì Lò, tam Than, tứ Tấc” đã từ lâu in sâu trong tâm thức của người dân Tây Bắc, nhắc đến bốn thung lũng lớn với phong cảnh hữu tình và khí hậu trong lành. Trong đó, Mường Lò được xếp thứ hai, sau Mường Thanh (Điện Biên) và đứng trên Mường Than (Than Uyên, Lai Châu) và Mường Tấc (Phù Yên, Sơn La).
Mường Lò là vùng đất dốc tụ được hình thành từ hàng triệu năm trước nhờ sự bồi đắp phù sa của sông Ngòi Thia, sông Ngòi Nung, sông Suối Đôi và hàng chục con suối lớn nhỏ. Vùng đất này nổi tiếng với hoa ban, gạo Mường Lò, xôi ngũ sắc… Gạo nơi đây đã trở thành thương hiệu trong văn hóa ẩm thực, được biết đến qua câu ca dao “Nếp Tú Lệ, tẻ Mường Lò”, phản ánh sự tinh túy của sản vật địa phương.
Hương thơm của gạo Mường Lò không chỉ lan xa mà còn đi vào những vần thơ mộc mạc, thể hiện tình yêu và sự gắn bó của con người với vùng đất này:
"Muốn ăn gạo trắng nước trong
Vượt qua đèo Ách vào trong Mường Lò"
"Mường Lò gạo trắng nước trong
Ai đi đến đó lòng không muốn về."
Đặc điểm cảm quan và chất lượng:
Trong cơ cấu giống lúa của Mường Lò, Séng Cù và Hương Chiêm là hai giống lúa hàng hóa chủ lực, góp phần quan trọng vào danh tiếng của gạo Mường Lò.
Gạo Séng Cù có hạt thon dài, chắc, đều và ít bị gãy vỡ. Hạt gạo mang màu trắng ngà, hơi bóng, tỏa mùi thơm đậm. Chiều dài trung bình của hạt vào khoảng 6,71 ± 0,2mm. Về thành phần dinh dưỡng, gạo Séng Cù có hàm lượng tinh bột dao động từ 81,64 ± 1,11%, hàm lượng protein khoảng 8,71 ± 0,31%, hàm lượng amyloza đạt 17,13 ± 0,31%, và nhiệt độ hóa hồ khoảng 63 ± 2,1°C.
Gạo Hương Chiêm có hạt thon dài, nhỏ, ít bị gãy vỡ. Chiều dài trung bình của hạt vào khoảng 5,67 ± 0,13mm. Hạt gạo mang màu trắng hoặc trắng ngà, tỏa mùi thơm từ nhẹ đến đậm. Về thành phần dinh dưỡng, hàm lượng tinh bột dao động từ 82,21 ± 0,78%, hàm lượng protein khoảng 8,9 ± 0,31%, hàm lượng amyloza đạt 19,08 ± 0,28%, và nhiệt độ hóa hồ khoảng 66 ± 1,5°C.
Điều kiện canh tác:
Danh tiếng của gạo Mường Lò có được nhờ điều kiện địa lý thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây lúa và kinh nghiệm canh tác lâu đời của người dân.
Vùng Mường Lò nằm trong khu vực đất cổ, được bao bọc bởi dãy Hoàng Liên Sơn, có địa hình thung lũng lòng chảo tương đối bằng phẳng, với độ cao dưới 250 mét so với mực nước biển. Khí hậu nơi đây có lượng mưa trung bình hàng năm từ 1.400 - 1.600mm, nhiệt độ trung bình 23,2°C, độ ẩm khoảng 80%, tổng số giờ nắng trung bình năm đạt 1.800 giờ. Biên độ nhiệt ngày và đêm dao động từ 8 - 14°C, đóng vai trò quan trọng trong quá trình quang hợp, tích lũy protein và hình thành hương thơm đặc trưng của hạt lúa.
Thổ nhưỡng của Mường Lò chủ yếu là đất phù sa được bồi đắp hàng năm và đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa nước, với tầng mùn dày và độ phong hóa lớn. Thành phần dinh dưỡng thuộc nhóm khá đến giàu, trong đó N tổng số từ 0,145 - 0,21%, K₂O tổng số từ 1,05 - 1,41%, N dễ tiêu từ 0,142 - 0,21%, chất hữu cơ từ 1,98 - 2,95%. Hàm lượng K₂O dễ tiêu dao động từ 89,51 - 115,46 mg/kg, P₂O₅ dễ tiêu từ 68,08 - 88,35 mg/kg. Do đất phù sa glây thường xuyên ứ nước, pH KCl dao động từ 3,01 - 4,01.
Nhờ vào sự giàu có của các dưỡng chất như N, K₂O, P₂O₅ và chất hữu cơ, cùng điều kiện khí hậu đặc biệt, lúa Séng Cù và Hương Chiêm trồng tại Mường Lò không chỉ có hàm lượng protein và tinh bột cao mà còn mang hương thơm đặc trưng vượt trội so với các vùng khác.
Quy trình kỹ thuật sản xuất:
Kinh nghiệm canh tác của người dân đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao danh tiếng của gạo Mường Lò. Qua nhiều thế hệ sinh sống tại vùng đất này, người Thái Đen đã tích lũy được hệ thống tri thức bản địa quý giá trong sản xuất lúa, kết hợp với những luật tục bảo vệ nguồn nước, môi trường và giống lúa quý hiếm, góp phần phát triển nông nghiệp bền vững.
Từ lâu, dân tộc Thái đã xây dựng hệ thống thủy lợi với mương - phai - lái - lin, đạt trình độ kỹ thuật cao và chuyên nghiệp trong canh tác lúa. Chỉ với dao và xẻng, họ đào những mương dẫn nước dài hàng chục cây số để cung cấp nước cho ruộng lúa. Hệ thống phai, gồm các đập tre và đá, giúp dâng nước từ suối vào mương, sau đó chia qua các lái (mương nhỏ) và lin (ống dẫn nước làm từ cây bương, cây vầu) để phân phối đều đến từng thửa ruộng.
Ngoài việc dẫn nước, người dân còn biết tận dụng nguồn tài nguyên tự nhiên để cải tạo đất. Họ đốt rạ lấy tro để tăng độ phì nhiêu, thả bèo tấm giữ ấm cho lúa vào mùa đông và sử dụng phương pháp ủ phân xanh thay thế phân hóa học, vừa giúp cây lúa phát triển tốt vừa bảo vệ môi trường và nguồn nước.
Bên cạnh những kinh nghiệm truyền thống, người dân Mường Lò còn tích cực ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong chăm sóc, thu hoạch và chế biến, tạo ra sản phẩm gạo có chất lượng cao, góp phần khẳng định thương hiệu gạo Mường Lò trên thị trường.
Phạm vi địa lý:
Phường Trung Tâm, phường Tân An, phường Pú Trạng, phường Cầu Thia, xã Nghĩa An, xã Nghĩa Phúc, xã Nghĩa Lợi thuộc thị xã Nghĩa Lộ, xã Thanh Lương, xã Thạch Lương, xã Sơn A, xã Hạnh Sơn, xã Phúc Sơn, xã Phù Nham thuộc huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái.
Truyền thông nói về sản phẩm gạo Mường Lò:
Đặc sản Gạo Séng Cù - Mường Lò: https://yenbai.gov.vn/noidung/tintuc/Pages/chi-tiet-tin-tuc.aspx?ItemID=56&l=DacsanYenBai
Phát triển thương hiệu gạo Séng Cù Mường Lò: https://dantocmiennui.vn/phat-trien-thuong-hieu-gao-seng-cu-muong-lo-post324670.html
Nức danh Gạo Séng Cù Mường Lò: https://tapchicongthuong.vn/magazine/nuc-danh-gao-seng-cu-muong-lo-112814.htm