Ngày 23/11/2020, Cục Sở hữu trí tuệ ra Quyết định số 4525/QĐ-SHTT về việc cấp Giấy chứng nhận đăng ký chỉ dẫn địa lý số 00094 cho sản phẩm quế “Trà Bồng”nổi tiếng. Ủy ban nhân dân huyện Trà Bồng là Tổ chức quản lý chỉ dẫn địa lý này.
Vùng quế ở Trà Bồng có lịch sử lâu đời và là một trong bốn vùng quế danh tiếng của Việt Nam. Nếu như quế Trà My (Quảng Nam) được ca ngợi bằng mỹ từ “Cao Sơn Ngọc Quế” thì quế Trà Bồng (Quảng Ngãi) lại được mệnh danh là “Tứ Đại Danh Dược”.
Cây quế ở Trà Bồng gắn liền với đời sống của đồng bào người Kor. Họ trồng quế và coi đó là nguồn thu nhập chính, sử dụng để giao thương với người Việt và người Hoa, trao đổi, mua bán các nhu yếu phẩm. Từ thế kỷ VI, thương nhân Ả Rập, Bồ Đào Nha và Trung Hoa đã đến vùng này để thu mua quế, góp phần đưa quế Trà Bồng vươn xa khỏi khu vực miền Trung Việt Nam.
Những năm 1980 - 1990 được xem là thời kỳ “hoàng kim” của cây quế. Người miền xuôi có câu: “Đắt thì quế, ế thì rơm” để nói về giá trị kinh tế của loại cây này. Đối với người Kor, cây quế được ví như “kho gạo” giữa rừng, và mỗi mùa thu hoạch quế là mùa “nhặt gạo” trên núi. Vì thế, cây quế còn được xem là tiêu chuẩn đánh giá sự sung túc của các hộ gia đình trong làng, bản.
Chính vì sự tồn tại lâu đời và sự gắn bó mật thiết với người Kor, cây quế Trà Bồng đã đi vào thơ ca, âm nhạc. Nhiều nhạc sĩ đã sáng tác về quế Trà Bồng như “Hương quế Trà Bồng” (Đào Việt Hưng), “Trà Bồng tình yêu trong tôi” (Nguyễn Tuấn), hay “Em đi trồng cây quế” (Thế Truyền).
Ngày nay, quế Trà Bồng không chỉ có giá trị trong nước mà còn vươn ra thị trường quốc tế, xuất khẩu sang nhiều nước như Ấn Độ, Pakistan, Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan.
Đặc điểm cảm quan và chất lượng:
Quế Trà Bồng được chế biến thành nhiều loại sản phẩm khác nhau, bao gồm vỏ quế thân, vỏ quế chi, bột quế vỏ, bột quế dầu, tinh dầu vỏ và tinh dầu lá.
Vỏ quế thân và vỏ quế chi có dạng suôn thẳng, mặt ngoài hơi xù xì, màu xám nâu, trong khi bề mặt bên trong có màu vàng nhạt đến vàng sậm. Vỏ quế thân có độ dày từ 3,91 mm đến 6,48 mm, lớp tinh dầu dày từ 1,36 mm đến 2,68 mm, độ ẩm từ 6,18 % đến 8,35 %, với hàm lượng tinh dầu dao động từ 2,82 % đến 6,31 %. Vỏ quế chi mỏng hơn, có độ dày từ 1,21 mm đến 3,12 mm, lớp tinh dầu dày từ 0,45 mm đến 0,82 mm, độ ẩm từ 5,69 % đến 7,84 %, hàm lượng tinh dầu từ 4,26 % đến 5,87 %. Cả hai loại vỏ quế đều có hàm lượng Cinnamaldehyde cao, mang lại hương thơm và giá trị dược liệu đặc trưng.
Bột quế vỏ có màu nâu vàng tối, độ ẩm từ 7,25 % đến 9,12 %, hàm lượng tinh dầu dao động từ 2,25 % đến 3,97 %, với hàm lượng Cinnamaldehyde từ 78,78 % đến 93,55 %. Trong khi đó, bột quế dầu có màu nâu vàng sáng, độ ẩm từ 6,23 % đến 6,97 %, hàm lượng tinh dầu từ 4,35 % đến 5,17 %, hàm lượng Cinnamaldehyde dao động từ 83,62 % đến 88,35 %.
Các sản phẩm vỏ quế và bột quế đều có mùi thơm nồng đặc trưng, không ngái, với vị cay ngọt pha lẫn đắng nhẹ.
Tinh dầu quế Trà Bồng được chia thành hai loại chính: tinh dầu vỏ và tinh dầu lá. Cả hai đều có hương thơm đậm đặc, vị cay nóng pha lẫn vị ngọt. Tinh dầu vỏ có màu vàng chanh đậm, trong khi tinh dầu lá có màu vàng chanh sáng. Tinh dầu vỏ có tỷ trọng tương đối từ 1,0449 d20 đến 1,0535 d20, chỉ số khúc xạ từ 1,5996 nD20 đến 1,6125 nD20, hàm lượng tinh dầu đạt 98,65 % đến 99,63 %, với hàm lượng Cinnamaldehyde từ 85,70 % đến 93,54 %. Tinh dầu lá có tỷ trọng tương đối từ 1,0445 d20 đến 1,0508 d20, chỉ số khúc xạ từ 1,6044 nD20 đến 1,6076 nD20, hàm lượng tinh dầu từ 98,33 % đến 99,60 %, hàm lượng Cinnamaldehyde dao động từ 88,97 % đến 89,60 %.
Điều kiện canh tác:
Quế Trà Bồng được trồng trên các vùng đồi thấp lượn sóng và núi cao, có độ cao từ 200 đến 1.000 mét so với mực nước biển. Khu vực này có lượng mưa cao, trung bình hàng năm từ 2.300 mm đến 3.600 mm. Mùa mưa kéo dài từ cuối tháng Tư đến hết tháng Mười, chiếm khoảng 90% tổng lượng mưa cả năm, trong đó cao điểm là từ giữa tháng Chín đến giữa tháng Mười Một – thời điểm thuận lợi để trồng quế. Từ tháng Mười Hai trở đi, lượng mưa giảm dần, đến tháng Một gần như không có mưa, kéo dài đến tháng Tư. Đây là điều kiện lý tưởng để thu hoạch, bảo quản và chế biến quế vào vụ Tiên.
Nhiệt độ trung bình hàng năm tại vùng quế Trà Bồng dao động từ 23,5°C đến 26,5°C, với nền nhiệt ổn định, thuận lợi cho sự sinh trưởng của cây quế. Độ ẩm không khí duy trì ở mức 85-90%, nhưng giảm mạnh vào mùa khô – thời điểm thu hoạch chính, giúp bảo quản quế tốt hơn. Tổng số giờ nắng trung bình năm là 2.050 giờ, với biên độ nhiệt ngày và đêm rõ rệt, tạo điều kiện lý tưởng để cây quế phát triển, cho tinh dầu chất lượng cao, làm nên danh tiếng của quế Trà Bồng.
Cây quế Trà Bồng được trồng trên các loại đất đặc trưng như đất xám bạc màu trên Macma axit, đất đỏ vàng trên đá phiến sét, đất vàng đỏ trên đá Macma axit, và đất mùn đỏ vàng trên đá phiến sét. Thành phần cơ giới của đất từ trung bình đến nhẹ, với độ pHKCL từ 3,94 đến 4,46. Đất trồng quế nghèo dinh dưỡng, với hàm lượng đạm tổng số từ 0,11% đến 0,15%, lân tổng số từ 0,06% đến 0,10%, kali tổng số từ 1,07% đến 1,26%. Với điều kiện đất như vậy, quế Trà Bồng có tốc độ sinh trưởng chậm, tạo nên hương vị và chất lượng đặc trưng.
Cây quế gắn bó với đời sống đồng bào Kor từ hàng trăm năm, được trồng trong vườn nhà, trên nương cao và cả trong rừng sâu. Ban đầu, mỗi gia đình chỉ có vài cây, sau đó phát triển thành các vườn, đồi và rừng quế. Khác với nhiều vùng khác, quế Trà Bồng được trồng dày dưới tán cây có bóng. Sau 3-5 năm, người dân tỉa bớt cây che bóng để quế có đủ ánh sáng quang hợp và sinh trưởng.
Người Kor có quan niệm trồng quế để dành cho con cháu, coi quế như một tài sản quý của gia đình. Do đó, họ chăm sóc, bảo vệ và khai thác quế một cách cẩn trọng. Phương thức canh tác đặc trưng kết hợp với điều kiện tự nhiên đặc biệt đã tạo nên chất lượng và danh tiếng riêng cho quế Trà Bồng.
Phạm vi địa lý:
Xã Hương Trà, xã Sơn Trà, xã Trà Bùi, xã Trà Giang, xã Trà Hiệp, xã Trà Lâm, xã Trà Phong, xã Trà Sơn, xã Trà Tân, xã Trà Tây, xã Trà Thanh, xã Trà Thủy và xã Trà Xinh thuộc huyện Trà Bồng, tỉnh Quảng Ngãi.
Truyền thông nói về sản phẩm quế Trà Bồng:
Trà Bồng (Quảng Ngãi): Sản xuất liên kết theo chuỗi giá trị, lợi ích nhân đôi: https://baodantoc.vn/tra-bong-quang-ngai-san-xuat-lien-ket-theo-chuoi-gia-tri-loi-ich-nhan-doi-1731934377084.htm