Chuyển dịch xuất khẩu nông sản từ tiểu ngạch sang chính ngạch: Cuộc cách mạng cần có sự kiên trì

22:14, 13/03/2022

Xuất khẩu nông sản phải chuyển dịch từ tiểu ngạch sang chính ngạch, muốn vậy cần chuẩn hóa từ đầu cung, điều kiện doanh nghiệp khi tiếp cận ở các vùng nguyên liệu chứ không chỉ là chuyển cách thức thương mại ở cửa khẩu…

Trái Thanh Long vẫn chủ yếu xuất khẩu tươi theo đường tiểu ngạch.
Trái Thanh Long vẫn chủ yếu xuất khẩu tươi theo đường tiểu ngạch.

Chủ trì cuộc họp vào chiều 9/3 với các hiệp hội ngành hàng nông sản và một số doanh nghiệp lớn trong ngành nông nghiệp để bàn về việc chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch tại thị trường Trung Quốc, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn mạnh, việc chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch là cuộc cách mạnh cần có sự kiên trì, sẵn lòng và sẵn sàng của cả hệ thống sản xuất, thương mại.

QUẢN LÝ NÔNG SẢN XUẤT KHẨU CẦN THEO HỆ THỐNG

Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu nông, lâm, thủy sản giữa hai nước Việt Nam - Trung Quốc năm 2021 đạt 12,6 tỷ USD, tăng 18,39% so với năm 2020.

Ông Nguyễn Quốc Toản, Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản, cho biết thách thức đối với hình thức xuất khẩu tiểu ngạch sang Trung Quốc hiện nay là thị trường ngày giám sát chặt chẽ các mặt hàng không được phép xuất khẩu chính ngạch.

Thời gian qua, một số mặt hàng như: sầu riêng, chanh leo… vẫn xuất qua các đường mòn, lối mở theo phương thức trao đổi cư dân biên giới, nhưng nay cũng không thể nhập khẩu vào Trung Quốc.

Trong 2 tháng đầu năm 2022,  xuất khẩu nông lâm thủy sản sang Trung Quốc đạt hơn 1,83 tỷ USD, giảm 1,7% so với cùng kỳ năm 2021. Trong số đó, xuất khẩu đạt 1,3 tỷ USD, giảm 7,4%; nhập khẩu đạt 515 triệu USD, tăng 16,6% so với cùng kỳ năm trước.

Trung Quốc tiếp tục quản lý chặt chẽ về truy xuất nguồn gốc, tăng cường và siết chặt quản lý xuất nhập khẩu biên mậu đối với các mặt hàng nông sản, hoa quả của Việt Nam.

“Chính sách quản lý hoạt động biên mậu của Trung Quốc thay đổi linh hoạt tùy theo từng thời điểm với mục đích hạn chế và duy trì lượng hàng hóa nhập khẩu từ Việt Nam theo hướng có lợi nhất. Chẳng hạn như Trung Quốc chỉ định hoặc cấp phép nhập khẩu, tạm ngừng nhập khẩu hoặc chỉ thông quan một loại hàng hóa tại một cửa khẩu... khiến các doanh nghiệp Việt Nam thường bị động”, ông Nguyễn Quốc Toản thông tin.

Theo ông Toản, Trung Quốc tiếp tục thực hiện chính sách “Zero Covid”, thắt chặt kiểm soát, phòng chống dịch Covid-19 trên cả bao bì hàng nông sản…, gây ùn tắc cục bộ tại khu vực cửa khẩu biên giới với Trung Quốc. Có thời điểm ngừng thông quan tại một số cửa khẩu do phát hiện virus SARS-CoV-2 đối với người và hàng hóa khi thông quan.

Ông Nguyễn Hoài Nam, Phó Tổng thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP), nhận định Trung Quốc là thị trường lớn, yêu cầu nghiêm ngặt. Những chính sách, cách tiếp cận đang làm tốt để xuất khẩu sang các thị trường như: EU, Nhật Bản… là tính hệ thống. Do đó, việc quản lý chất lượng sản phẩm sang Trung Quốc cũng phải theo hệ thống. Đồng thời, cần huy động sự tham gia của cả chuỗi ngành hàng và xác định vai trò cụ thể của các bộ, doanh nghiệp, địa phương.

"Với cách làm này thì doanh nghiệp mới có cơ hội tiếp cận thông tin để thực hiện. Bên cạnh đó, nông sản phải có sự đầu tư kho bảo quản, kể cả kho khô và kho lạnh. Để thu hút được doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực này, nhà nước cần có chính sách đất đai và vốn”, ông Nguyễn Hoài Nam khuyến nghị.

Ông Võ Quan Huy, Giám đốc Công ty TNHH Huy Long An cho rằng, Trung Quốc đã có sự chuẩn bị sớm để chuyển nhập khẩu từ tiểu ngạch sang chính ngạch. Thị trường này cũng ngày càng chuẩn hóa tiêu chuẩn hàng hóa nhập khẩu.

Tuy nhiên, doanh nghiệp Việt dường như chưa có sự sẵn sàng. Mặc dù Việt Nam có nhiều sản phẩm thị trường Trung Quốc có nhu cầu cao, nhưng để xuất khẩu được đòi hỏi doanh nghiệp phải kiện toàn cách kinh doanh, đáp ứng được điều kiện nhập khẩu.

CUỘC “CÁCH MẠNG” CẦN CÓ SỰ KIÊN TRÌ

Ông Đinh Cao Khuê, Chủ tịch Hội đồng quản trị Công ty cổ phần thực phẩm Đồng Giao (DOVECO) cho hay, năm 2020, xuất khẩu tiểu ngạch quả chanh leo chiếm 75%, nhưng năm 2021 chỉ còn 25%. Nhờ tăng chế biến nên giá chanh leo đã lên 20.000 đồng/kg so với trước đây chỉ từ 7.000 - 10.000 đồng/kg. Cùng với đó, sản phẩm chế biến cũng được tiêu thụ tốt.

Đánh giá về quả thanh long, ông Khuê cho rằng, loại trái cây này vẫn xuất khẩu tươi quá nhiều, trong khi chế biến quá ít. Diện tích trồng thanh long cũng tăng nhanh và rất cần chuyển đổi một phần diện tích sang các loại cây trồng khác. 

"Cần chuyển xuất khẩu thanh long sang chính ngạch càng sớm càng tốt. Để xuất khẩu chính ngạch, trước tiên phải xuất phát từ chính mình và làm phải chuẩn”, ông Khuê lưu ý.

"Phải có lộ trình để tổ chức lại sản xuất, thị trường, ngành hàng và cả hiệp hội ngành hàng. Nếu không tổ chức sản xuất thì sẽ không chuẩn hóa được vùng nguyên liệu, không truy xuất được nguồn gốc sản phẩm… và không có sản phẩm để đưa vào xuất khẩu chính ngạch".

Ông Lê Minh Hoan, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn.

Chủ trì cuộc họp, Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Lê Minh Hoan nhấn mạnh, việc chuyển từ xuất khẩu tiểu ngạch sang xuất khẩu chính ngạch là cuộc cách mạnh cần có sự kiên trì, sẵn lòng và sẵn sàng của cả hệ thống sản xuất, thương mại.

Việc chuyển đổi hình thức xuất khẩu này đặt ra nhiều vấn đề giữa mong muốn và thực trạng. Bởi, thời gian vừa qua ngành vẫn còn sản xuất để xuất khẩu tiểu ngạch chứ chưa phải sản xuất để xuất khẩu chính ngạch.

"Vấn đề đặt ra là cần chuẩn hóa từ đầu cung, điều kiện doanh nghiệp khi tiếp cận ở các vùng nguyên liệu chứ không chỉ là chuyển cách thức thương mại ở cửa khẩu mà quan trọng có hệ thống từ đầu cung đến đầu cầu, từ tổ chức sản xuất đến tổ chức thị trường”, Bộ trưởng nêu rõ.

Nhận định rằng, sản xuất trái cây ở 2 khu vực là Đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nguyên vẫn còn mạnh ai nấy làm, chưa có sự điều tiết về diện tích, sản lượng phù hợp. Vì vậy, Bộ Nông nghệp và Phát triển nông thôn sẽ thành lập hai văn phòng để quản lý, điều phối các mặt hàng nông sản tại hai khu vực này.

Tính đến ngày 7/3/2022, có 1.853 doanh nghiệp Việt Nam được hải quan Trung Quốc cấp mã, đảm bảo xuất khẩu nông sản, thực phẩm của doanh nghiệp Việt Nam sang Trung Quốc.

Tuy nhiên, trong quá trình các doanh nghiệp đăng ký mã số để xuất khẩu sang Trung Quốc, Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc đã nhận được kiến nghị, phản ảnh từ các bộ chức năng và doanh nghiệp về một số vấn đề vướng mắc, như một số doanh nghiệp đã được cập nhật lên hệ thống nhưng chưa được cấp tài khoản truy cập. 

Từ thực tế này, Đại sứ quán Việt Nam tại Trung Quốc đề nghị Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Công thương, Bộ Y tế rà soát lại số doanh nghiệp và sản phẩm đã đề xuất với hải quan Trung Quốc nhưng chưa được phê duyệt, cấp mã và liệt kê cụ thể những khó khăn vướng mắc trong quá trình đăng ký. Đồng thời, đề nghị các bộ thống nhất giao cho một đầu mối (đề xuất Văn phòng SPS Việt Nam) tập hợp thông tin từ các bộ, đơn vị phụ trách gửi cho Đại sứ quán để trao đổi với hải quan Trung Quốc.